Thập nhị nhân duyên nghĩa là gì?

Translate into Other Languages
Phật Giáo Việt Nam
Hòa Thượng Thích Trung Quán

Thập nhị nhân duyên là gì?

Thập nhị nhân duyên là: vô minh, hành thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử.

Nghĩa là thế nào?

Nhân là hột giống, là nguyên nhân, duyên là những cái phụ thuộc, giúp đỡ cho hạt giống cho nguyên nhân phát sinh kết quả. Như hạt giống lúa gieo xuống đất, nhờ đất, nước, ánh nắng, mà nảy mầm sanh cây lúa. Nhân duyên lại có nghĩa là quan hệ lẫn nhau. Cái này có nên cái kia có, cái kia có nên cái nọ sinh ra… Mười hai món này làm nhân, làm duyên sinh ra nhau, quan hệ lẫn nhau nên gọi là mười hai nhân duyên.

1. Vô minh: là không sáng, tức là sự tối tăm, ngu si không trí tuệ, tức là chỉ chung sự mê lầm của chúng sinh.

2. Hành: là hành động, tạo nghiệp, kết quả của vô minh, không trí tuệ.

3. Thức: là thức tâm. Do hành mà tạo nghiệp cảm thức tâm đi đầu thai.

4. Danh sắc: Thức tâm đầu thai, bẩm thụ tinh huyết cha mẹ thành thai, có thọ, noãn, thức. Thọ là sự sống, noãn là hơi nóng, thức là thức tâm. Danh là thức tâm, sắc là thể chất, gọi chung thức tâm và thể chất, nên nói danh sắc.

5. Lục nhập: Cái thai càng ngày càng lớn đủ sáu giác quan, gọi là lục nhập.

6. Xúc: Thai thân đủ tháng ngày, lọt lòng mẹ chào đời, cảm xúc những sự nóng lạnh, đói khát… chưa đủ trí phân biệt.

7. Thụ: từ năm, sáu tuổi đến mười một, mười hai tuổi, do xúc mà cảm chịu sự vui khổ.

8. Ái: Từ mười ba, mười bốn, mười lăm tuổi sắp lên, do thụ mà phát sinh tự ái nhiễm.

9.Thủ: Từ mười hai tuổi sắp lên, do ái mà mong cầu tìm kiếm giữ lấy.

10. Hữu: Bởi thủ nên hành động, tạo nghiệp, gây nhân cho đời sau.

11. Sinh: Bởi có nhân (hữu), nên cảm nghiệp phải sinh ra đời sau.

12. Lão tử: Có sinh tất phải chịu già, bịnh, chết kết quả một đời người.