Tứ Như Ý Túc Là Gì?

Trích Từ: Kinh Nghiệm Học Phật
Tuệ Tâm (Phật Học Phổ Thông)


Tứ Như Ý Túc là gì?
Tứ Như Ý Túc là bốn phép Thiền định, là bốn phương tiện giúp chúng ta thành tựu các Tam ma địa ( Samadhi: Chánh định), vì thế nên cũng gọi là Định pháp bao gồm:

1. Dục Như Ý Túc 

2. Tinh Tấn Như Ý Túc

3. Nhất Tâm Tứ Như Ý Túc

4. Quán Như Ý Túc

“Như ý” là được như ý mình muốn. “Túc” là chân, có nghĩa nương tựa mà cũng có nghĩa là đầy đủ. Tứ Như Ý Túc, có nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công đức Thiền định, Thần thông, được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của mình. Bởi lý do ấy, nên nó còn được gọi là “Tứ Thần Túc”. Luận Câu Xá dạy: “Vì sao định mà gọi là Thần Túc? Vì các công đức linh diệu thù thắng đều nương nơi bốn Định này mà được thành tựu”.

Sau khi đã nhận rõ được chân tướng của cõi đời (Tứ niệm xứ), đã quyết tâm bỏ ác theo thiện (Tứ Chánh cần). Hành giả muốn đi tiếp trên đường đạo, cần phải vạch cho mình một hướng tiến nhất định và phải có một thái độ quyết tâm nhắm theo đúng hướng đã vạch mà đi. Không nhìn ngang nhìn ngửa, không mong ước cái này cái khác. Hành giả chí quyết đi một đường. Tập trung tất cả mong ước, chí nguyện, năng lực tinh thần của mình vào đó, cho đến khi được toại nguyện như ý mới thôi. Muốn được như thế, hành giả phải tu theo pháp môn “Tứ Như Ý Túc”, một trong những pháp môn của Ðạo Đế dưới đây.

♦♦♦

 Nội Dung của Tứ Như Ý Túc

1. Dục Như Ý Túc

Dục là mong muốn. Mong muốn một cách thiết tha, mong muốn cho kỳ được, mong muốn cho đến khi mãn nguyện mới thôi. Ðó gọi là Dục Như Ý Túc. Nhưng mong muốn cái gì? Tại sao đã là Phật tử mà còn “dục”, còn mong muốn? Trước tiên, chúng ta nên nhận định rõ ràng tánh chất của sự mong muốn ở đây.

Có thứ mong muốn thỏa mãn những thú tánh, những tham vọng, đó là mong muốn tội lỗi, nên diệt trừ. Có thứ mong muốn hướng thượng, trong lành, như mong muốn sống một cuộc đời đẹp đẽ, thanh cao; Mong muốn được giải thoát ra ngoài biển khổ sanh tử, đó là thứ mong muốn hợp lý, đáng khuyến khích.

Người Phật tử mong muốn được thành đạt pháp Thiền Định mình đang tu, để tiến lên chứng các Thánh quả. Thứ mong muốn này rất cần cho người tu hành. Nếu không mong muốn thiết tha, mãnh liệt thì khó mà đi đến đích giải thoát được. Ðây cũng là một sự cải chính hùng hồn để đánh tan quan niệm sai lầm cho rằng: Người Phật tử phải diệt dục, mà diệt dục nghĩa là diệt tất cả, diệt luôn cả sự sống.

Thật ra diệt dục ở đây tức là diệt Dục vọng. Tức là diệt những phần ham muốn xấu xa đê hèn, làm cho con người bị đọa xuống hàng thấp kém như loài súc sanh, địa ngục. Diệt phải được hiểu như thế chứ không phải mang hàm ý tiêu cực như: Diệt luôn cả những chí nguyện, những mong ước, những đức tánh tốt đẹp của con người.

Sự mong muốn sau nầy, người Phật tử không bao giờ lãng quên. Trái lại, họ trút cả tâm tư hướng về cái đích mình đang nhắm, những pháp mình đang tu. Người thế gian ưa thích vật dục mạnh mẽ như thế nào, thì người tu hành mong muốn thành tựu những pháp Thiền định của mình cũng mạnh mẽ như thế ấy. Có như thế, hành giả mới tăng tiến mãi trên bước đường tu hành của mình.

2. Tinh Tấn Như Ý Túc

Tinh là tinh chuyên, thuần nhất, không xen tạp. Tấn là đi tới không thoái lui. Tinh tấn là luôn luôn chuyên tâm nhất chí, cố gắng không ngừng để đạt được mục đích của mình. Người học Phật nếu không tinh tấn ắt tu hành giải đãi. Mà tháng năm trôi nhanh như sương khói, độ mình còn chưa nổi bàn chi đến chuyện độ chúng sanh. Thế chẳng phải cô phụ ơn Phật lắm đó ư?

Tinh Tấn là tăng tiến dũng mãnh, chuyên cần siêng năng không lười nhác, không bỏ cuộc cho đến khi tới đích. Chúng ta nên nhớ rằng: Tinh tấn không phải chỉ là sự hăng hái, bồng bột trong chốc lát, như sự ồ ạt bốc cháy của ngọn lửa rơm. Tinh tấn là nghị lực tu tập mạnh mẽ, thường hằng, không bao giờ gián đoạn. Bởi thế trong kinh Di Giáo đức Thế Tôn có dạy: “…Như người kéo cây lấy lửa, cây chưa nóng đã thôi, tuy muốn được lửa, nhưng khó thể được”. Vậy người muốn chứng đạo quả, phải thường Tinh tấn đầy đủ như ý mình ước nguyện.

3. Nhất Tâm Như Ý Túc

Nhất tâm là tâm chuyên nhất vào định cảnh, không bao giờ tán loạn. Một con sông lớn, nếu bị chia nhiều nhánh tất nhiên sức chảy của nó bị yếu. Trái lại, một dòng suối nhỏ, nếu chỉ chảy một đường, cũng đủ sức xoi thủng đá. Người tu hành, tâm được chuyên nhất, không bị tán loạn, thì muôn sự đều thành. Phật dạy: “Như người chứa nước, khéo giữ bờ đê, người tu hành giữ nước, Trí tuệ cũng vậy. Phải khéo tu Thiền định, chớ cho tán động”.

4. Quán Như Ý Túc

Quán nghĩa là dùng Trí tuệ sáng suốt quán sát pháp mình đang tu. Quán trí ấy do Định mà phát sanh, Trí ấy là Tịnh Trí. Vì tịnh cho nên nó có thể như thật mà thông đạt thật nghĩa của các pháp.

♦♦♦

Sở dĩ Dục, Tinh tấn, Nhất tâm và Quán đều được gọi là “Như Ý Túc”, bởi vì chúng là những thứ để cho tất cả công đức tu hành và thần lực nương vào đó mà phát sanh, hợp như ý muốn của hành giả. Bốn phép nầy như bốn nấc thang kế tiếp theo nhau, đưa hành giả từ cái nhân hữu lậu mê mờ, đến cái nhân vô lậu giải thoát.

Trước hết, do tu tâm hằng mong muốn (Dục), cho nên sự tu tập dũng mãnh (Tinh tấn).

Nhờ sự tu tập dũng mãnh, nên phiền não tiêu trừ, do đó tâm được chuyên nhất (Nhất tâm).

Nhờ tâm chuyên nhất nên quán trí được thanh tịnh mãnh lợi (Quán) và có năng lực phá tan cội gốc Vô minh. Khi Vô minh hết, thì vô số nghiệp chướng phải tiêu, hằng hà sa Trí đức phát hiện.

Người tu hành, khi trí tuệ và công đức viên mãn tức khắc đầy đủ vô biên thần dụng. Có thể an nhiên ra vào trong sanh tử để cứu khổ chúng sanh. Không nhất thiết cứ phải chứng được Lục thông mới được tự tại?